Thanh Tấn
Member
Khống chế chi phí lãi vay là quy định quan trọng trong Nghị định 132/2020/NĐ-CP nhằm giới hạn mức chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, tổng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay chỉ được khấu trừ tối đa 30% EBITDA. Quy định này tác động trực tiếp đến nghĩa vụ thuế và chiến lược tài chính của doanh nghiệp, đặc biệt với những đơn vị có phát sinh giao dịch liên kết hoặc vay vốn lớn từ ngân hàng.
Cơ chế này nhằm đảm bảo nghĩa vụ thuế phản ánh đúng bản chất hoạt động kinh doanh, đồng thời ngăn chặn rủi ro chuyển giá. Việc hiểu rõ cách tính và áp dụng khống chế chi phí lãi vay không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật, mà còn tối ưu chiến lược quản trị thuế minh bạch, bền vững.
Với quy định khống chế chi phí lãi vay nhằm ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp tăng vay vốn nội bộ để chuyển giá, giảm lợi nhuận chịu thuế và đảm bảo nghĩa vụ thuế tương ứng với giá trị thực của hoạt động kinh doanh.
Quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 5, Nghị định số 132 có thể bao gồm cả các đối tượng mà bản chất là bên độc lập như các ngân hàng, các tổ chức tín dụng độc lập, không có mối quan hệ sở hữu về vốn.
Thực tế này tạo ra bất cập khi nhiều doanh nghiệp chỉ phát sinh khoản vay từ các tổ chức độc lập, nhưng vẫn bị xác định là có quan hệ liên kết. Hệ quả là các giao dịch này bị xem là giao dịch liên kết và chịu áp dụng quy định khống chế chi phí lãi vay.
Liên quan đến quy định khống chế chi phí lãi vay, nhiều doanh nghiệp đã kiến nghị rằng việc vay vốn ngân hàng để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh là nhu cầu phổ biến và hợp pháp. Về bản chất, đây cũng là hoạt động cấp tín dụng thông thường của ngân hàng. Doanh nghiệp và ngân hàng là các bên hoàn toàn độc lập, không có quan hệ kiểm soát, điều hành hay góp vốn. Vì vậy, chi phí lãi vay mà doanh nghiệp phát sinh thực chất là khoản chi phí hợp lý, trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính vì điều đó, việc khống chế chi phí lãi vay và loại chi phí lãi vay đối với các doanh nghiệp trong trường hợp này là không phù hợp.
Cơ chế này nhằm đảm bảo nghĩa vụ thuế phản ánh đúng bản chất hoạt động kinh doanh, đồng thời ngăn chặn rủi ro chuyển giá. Việc hiểu rõ cách tính và áp dụng khống chế chi phí lãi vay không chỉ giúp doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật, mà còn tối ưu chiến lược quản trị thuế minh bạch, bền vững.
Khống chế chi phí lãi vay là gì?
Khống chế chi phí lãi vay là quy định pháp luật giới hạn mức chi phí lãi vay được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo Nghị định 132/2020/NĐ-CP, tổng chi phí lãi vay thuần của doanh nghiệp (sau khi trừ lãi tiền gửi, lãi cho vay) chỉ được khấu trừ tối đa 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng chi phí lãi vay cộng chi phí khấu hao (EBITDA).Với quy định khống chế chi phí lãi vay nhằm ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp tăng vay vốn nội bộ để chuyển giá, giảm lợi nhuận chịu thuế và đảm bảo nghĩa vụ thuế tương ứng với giá trị thực của hoạt động kinh doanh.
Cơ sở pháp lý về khống chế chi phí lãi vay
Để nắm vững cơ chế khống chế chi phí lãi vay, doanh nghiệp cần tham chiếu trực tiếp Nghị định 132/2020/NĐ-CP văn bản pháp lý quy định rõ nguyên tắc xác định, giới hạn tỷ lệ khấu trừ cũng như các trường hợp ngoại lệ được áp dụng. Đây là nền tảng quan trọng giúp doanh nghiệp vừa tuân thủ đúng quy định pháp luật, vừa xây dựng chiến lược vốn tối ưu và quản trị rủi ro thuế hiệu quả.Quy định khống chế chi phí lãi vay
Theo khoản 3 Điều 16 Nghị định 132/2020/NĐ-CP, quy định về khống chế chi phí lãi vay nêu rõ tổng chi phí lãi vay được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết được xác định như sau:Điều này có nghĩa là chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN không vượt quá 30% của tổng EBITDA (Lợi nhuận trước lãi vay, thuế, khấu hao và khấu trừ) của doanh nghiệp.“Tổng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cộng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ cộng chi phí khấu hao phát sinh trong kỳ của người nộp thuế “
Nguồn: Thư viện pháp luật
Mức khống chế chi phí lãi vay tối đa được trừ khi tính thuế TNDN là 30% EBITDA.
Quy định về khống chế chi phí lãi vay được áp dụng để giới hạn mức chi phí lãi vay được trừ khi tính thuế TNDN. Cụ thể, doanh nghiệp chỉ được trừ tối đa chi phí lãi vay trong phạm vi 30% EBITDA. Phần chi phí vượt quá tỷ lệ này sẽ bị loại và không được tính vào chi phí hợp lệ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN trong kỳ.Bất cập trong quy định khống chế chi phí lãi vay ngân hàng
Một trong những vấn đề gây nhiều vướng mắc cho doanh nghiệp hiện nay là quy định về xác định quan hệ liên kết thông qua vốn vay được nêu tại Điểm d, Khoản 2, Điều 5 Nghị định 132/2020/NĐ-CP:Theo quy định tại Nghị định 132/2020/NĐ-CP, cơ chế khống chế chi phí lãi vay áp dụng đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, trong đó tổng chi phí lãi vay được trừ không được vượt quá 30% EBITDA (lợi nhuận trước lãi vay, thuế và khấu hao). Phần chi phí lãi vay vượt quá ngưỡng này sẽ bị loại và không được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp.“Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay”.
Nguồn: Thư viện pháp luật
Quy định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 5, Nghị định số 132 có thể bao gồm cả các đối tượng mà bản chất là bên độc lập như các ngân hàng, các tổ chức tín dụng độc lập, không có mối quan hệ sở hữu về vốn.
Thực tế này tạo ra bất cập khi nhiều doanh nghiệp chỉ phát sinh khoản vay từ các tổ chức độc lập, nhưng vẫn bị xác định là có quan hệ liên kết. Hệ quả là các giao dịch này bị xem là giao dịch liên kết và chịu áp dụng quy định khống chế chi phí lãi vay.
Liên quan đến quy định khống chế chi phí lãi vay, nhiều doanh nghiệp đã kiến nghị rằng việc vay vốn ngân hàng để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh là nhu cầu phổ biến và hợp pháp. Về bản chất, đây cũng là hoạt động cấp tín dụng thông thường của ngân hàng. Doanh nghiệp và ngân hàng là các bên hoàn toàn độc lập, không có quan hệ kiểm soát, điều hành hay góp vốn. Vì vậy, chi phí lãi vay mà doanh nghiệp phát sinh thực chất là khoản chi phí hợp lý, trực tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính vì điều đó, việc khống chế chi phí lãi vay và loại chi phí lãi vay đối với các doanh nghiệp trong trường hợp này là không phù hợp.
Bổ sung quy định loại trừ
Vì vậy, Bộ Tài chính đã đề xuất sửa đổi, bổ sung Điểm d, Khoản 2, Điều 5 Nghị định 132/2020/NĐ-CP về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, theo hướng loại trừ một số trường hợp khỏi phạm vi xác định quan hệ liên kết. Đây được xem là bước điều chỉnh cần thiết nhằm tháo gỡ bất cập trong việc áp dụng quy định khống chế chi phí lãi vay đối với các khoản vay thực chất phát sinh từ giao dịch độc lập.Quy định tại điểm d khoản này không áp dụng cho các trường hợp sau:“Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay.”
Nguồn: Thư viện pháp luật
Theo Bộ Tài chính, đề xuất này sẽ góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng khống chế chi phí lãi vay cho doanh nghiệp. Đặc biệt, với các doanh nghiệp dự án đặc thù, dự án trọng điểm khi vay vốn ngân hàng và đáp ứng điều kiện quy định, thì doanh nghiệp và ngân hàng sẽ không còn bị coi là các bên có quan hệ liên kết.“Bên bảo lãnh hoặc cho vay là các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và không tham gia trực tiếp, gián tiếp điều hành, kiểm soát, góp vốn, đầu tư vào doanh nghiệp đi vay hoặc doanh nghiệp được bảo lãnh theo quy định tại các điểm a, c, đ, e, g, h, k, l và m khoản này.
Bên bảo lãnh hoặc cho vay là các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đi vay hoặc được bảo lãnh không trực tiếp, gián tiếp cùng chịu sự điều hành, kiểm soát, góp vốn, đầu tư của một bên khác theo quy định tại các điểm b, e và i khoản này.”
Nguồn: Thư viện pháp luật
Xem chi tiết: Tại đây